Header Ads

Thanh Martino De Porres

St Martino De Porres
Cuộc đời Thánh Martinô (theo gxdaminh.net)
Giuse Ngô Văn Công O.P
Chào đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt - thậm chí có thể nói là bi đát và thương tâm – giữa thế kỷ mười sáu (ngày 9/12/1579), cậu bé Martinô de Poret đã sớm chứng tỏ cho mọi người thấy : lòng yêu mến không cần phải có điều kiện, hay hoàn cảnh thuận lợi.

Mang trong mình dòng máu hiệp sĩ của người Cha Don Juan de Poret, Martinô đã vượt qua những rào cản của kỳ thị, của những khinh miệt và nhiễu nhương của thời cuộc để sống tâm hồn đơn sơ, phó thác, và tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Nhờ dòng máu của người mẹ da den Anna velasquez, Martinô đã sớm thấu hiểu thế nào là bị ruồng bỏ, bị khinh chê và phải hứng chịu bất công của xã hội. Nhưng hoàn cảnh đau buồn ấy không làm cho cậu bé Martinô nổi loạn hay chống đối xã hội. Trái lại, cậu đã dùng những bất công, kỳ thị và thiệt thòi ấy của bản thân để chứng minh cho mọi người thấy rằng “mọi sự đều có thể sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa”. Không những, Martinô đã vượt qua hoàn cảnh bất lợi của mình, mà cậu còn sống đẹp và thật hữu ích cho mọi người, trở thành bài ca bác ái vang mãi đến tận hôm nay và sau này nữa.
Thiếu vắng tình thương của người cha, Martinô không oán đời hay trách người, cậu vẫn giữ lòng hiếu thảo và trọng kính với cha, nhờ vào việc cậu đã thấu cảm tình thương vô biên của Thiên Chúa là CHA THẬT của hết mọi người, không phân biệt sang hèn, đen trắng… Cậu đã khám phá và xây dựng cho mình một triết lý sống : “Tất cả mọi người đều là anh em với nhau trong Chúa, vì là con một Cha trên trời.”
Vì thế, cậu đã quên đi cái nghèo, cái bất hạnh của mình để đến với mọi người. Từ những cụ già bị hành hạ, đói lả trên đường, hay những bệnh nhân đau đớn sống dở chết dở, cho tới những chú mèo, chị chuột… tất cả đều nhận được sự quan tâm, chăm sóc và yêu thương của cậu.
“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).
Khi biết cha bề trên lo buồn vì những món nợ khổng lồ của tu viện, nguyên nhân dẫn đến những món đồ trong nhà lần lượt đội nón ra đi, Martinô đã cầu nguyện rất nhiều và mong muốn làm được chút gì đó để chia sẻ gánh nặng với cha bề trên và cộng đoàn. Một lần, Martinô đang quét hành lang thì thấy cha bề trên tất tả ra đi với hai gói lớn. Thoáng nhìn vẻ mặt mệt mỏi của ngài, Martinô cảm thấy lòng dâng lên một nỗi cảm thông dạt dào.
Đoán biết sự việc, cậu chạy vào phòng ăn kiểm tra lại, thì thấy hai bức tranh trên tường đã biến mất. Martinô cảm thấy tiếc hai bức tranh đẹp, và chưa biết xử trí ra sao, thì một tia sáng chợt lóe lên trong đầu. Cậu lật đật đuổi theo cha bề trên, vừa thở hổn hển vừa nói :
"Thưa cha bề trên, cha không cần phải bán hai bức tranh này. Xin cha hãy đem con đi bán ! Con khỏe mạnh, có chút chữ nghĩa và biết làm nhiều việc. Như thế, cha có thể bán con với giá cao, chừng đó, chẳng những cha có dư tiền để trả nợ mà còn có thể mua thêm vài bức tranh nữa. Thật là đơn giản, thưa cha".
Cha bề trên há hốc miệng tỏ vẻ kinh ngạc, vì cha vừa được nhìn ngắm vào tận đáy tâm hồn trong suốt của người giúp việc da đen này, cha cảm thấy nỗi mệt mỏi tan biến và hai gói hàng nặng dưới tay cha trở nên nhẹ bổng. Cha đặt hai bức tranh xuống đất, ôm chầm lấy Martinô và nói : "Không ! Martinô ! Con không nên nghĩ như thế. Con quí giá hơn mọi vẻ đẹp trên thế gian này !"
Một trong những ơn riêng Thiên Chúa ban cho Martinô, là ơn làm cho bánh hóa nhiều. Mỗi sáng Martinô thường ăn uống thật vội vã để có giờ tiếp đón hàng trăm người nghèo đang đứng đợi thày ngoài cổng. Bởi vì Martinô hiểu được sự thật này : phục vụ người nghèo là phục vụ Chúa Kitô, thế nên thày không muốn để Ngài phải đợi lâu ngoài cửa.
"Xin Chúa chúc lành và gia tăng của ăn này để làm no lòng những người đến đây".
Đó là lời "truyền phép" đơn sơ của thày Martinô trên giỏ lương thực. Trong khoảng một giờ đồng hồ, Martinô đứng ở cửa tu viện phân phát thức ăn, và dưới con mắt đức tin, thày thấy những bàn tay đang giơ ra kia là những bàn tay của Chúa. Nghĩ như thế, nên không bao giờ thày nhìn xuống giỏ thực phẩm để tính toán. Thức ăn vẫn tiếp tục còn trong giỏ bao lâu thày muốn. Đến khi mọi người đã no nê, Martinô đóng cửa lại, thày thu góp những mảnh vụn và thực phẩm dư thừa, rồi đi về phía chuồng bò để lo cho các chú chuột đang chờ thày ở đó được ăn. Lời thày đã hứa là hứa thật, dù là hứa với đám chuột.
Khi trái đã chín thơm và khi đóa hoa đã tỏa hương thơm ngát, chính là lúc được Thiên Chúa hái về để điểm tô thiên giới, và trở thành khí cụ chuyển thông ơn Thiên Chúa xuống cho những ai tin tưởng và đặt hy vọng vào Người..
Ngày 3-11-1639, chỉ một cơn đau nhẹ, thày Martinô qua đời, vào ngày mà thày đã báo trước cho anh em trong Dòng. Người đã từng cứu chữa các bệnh nhân, làm cho người chết sống lại và thực hiện bao nhiêu phép lạ khác đã không cứu chữa chính mình. Năm ấy, thày Martinô tròn 60 tuổi.
Lòng thương cảm người khổ đau của thày Martinô không chấm dứt sau khi quả tim đã ngừng đập. Khi thi thể thày còn được quàn tại tu viện, nhiều người bị bệnh nan y đến chạm vào thày và đã được lành bệnh.
Những người khiêng linh cữu của thày Martinô đến huyệt không phải là các thày Dòng, mà là hai Giám mục, cùng với Tổng trấn Lima và Quan chánh án hoàng gia. Đông đảo dân chúng theo sau cầu nguyện và cất cao giọng hát : "Chúa hạ bệ kẻ kiêu căng và tuyên dương người khiêm hạ".
Thật không còn lời nào đúng hơn để chúc tụng người tôi tớ da đen hèn mọn của Chúa, bởi vì họ đang từ giã một con người đặc biệt, mà mỗi nhịp đập nơi trái tim người ấy, đều hòa nhịp với trái tim của Thiên Chúa, của con người và của vạn vật.
Năm 1837, đức Grêgorio XVI suy tôn thày Martinô de Porres lên hàng chân phước. Ngày 6-5-1962, đức Gioan XXIII ghi tên ngài vào sổ các hiển thánh.
Chúng con nguyện xin Thánh Martinô chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con biết theo gương thánh nhân, hát lên “bài ca bác ái”, Lời Yêu Thương trong đời, để ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa, đã luôn dùng mọi sự để sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người.
 
 Theo nhakhoa.me
Bạn thân của người nghèo khổ và của loài vật vô tri.
Martinô Porres sinh ngày 09-12-1579 tại thành phố Lima, nước Peru, Nam Mỹ châu. Trong sổ Rửa tội tại Lima còn ghi “Marinô, con trai người cha ẩn danh”. Thật ra cha của cậu là Gioan Porres, một người gốc Tây Ban Nha, sau làm thị trưởng tại Panama. Ông không nhận con khi thấy nó là con lai da mầu. Do đó, suốt nhiều năm, Martinô phải sống cảnh nghèo với người mẹ, không hôn thú, bà Anna Velasquez, một phụ nữ da đen. Tuy nhiên, xã hội Nam Mỹ “lai căng” thời đó chẳng những không làm cho cậu đau khổ, mà còn giúp cậu đạt tới đức khiêm hạ hơn, đây là đặc tính nổi bật nhất đời của cậu.
Mẹ con cậu Martinô tuy nghèo, nhưng lại rộng lòng bác ái với những người cùng cảnh ngộ. Một hôm bà mẹ gọi hai anh em Martinô và Gioanna, trao cho mấy đồng xu và sai chúng ra chợ mua rau. Bà đã cặn kẽ bảo em giữ tiền cẩn thận đi thẳng đến chợ, không nên nhìn hai bên đường. Vì bà nghĩ nếu con mình thấy kẻ nghèo khó thì sẽ thương mà tặng cho họ những đồng tiền mẹ con đang cần cho bữa tối nay. Hai anh em vâng dạ và mau mắn ra đi. Ðang đi, mắt cô em đã bắt gặp người ăn xin mặc đồ rách rưới bên kia đường. Ý nghĩ là sẽ không nói, nhưng tự nhiên cô bé bật miệng kêu “Kìa!” Thế là Martinô nhìn theo em.
Nghĩ đến lời mẹ căn dặn, hai anh em đã cố gắng đi tiếp. Những cậu lại nghĩ chắc mẹ cũng không nỡ để người hành khất này chết đói. Thế là hai anh em quay lại bên người hành khất, cậu lấy tiền ra và nói: “Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, ông hãy cầm lấy số tiền này!” Ông nhận quà, miệng rối rít cám ơn và xin Chúa chúc lành cho hai em. Thế là hết tiền, hai anh em đâm lo, không biết phải nói với mẹ làm sao. Vừa tới ngang nhà thờ chính tòa thành Lima, hai anh em liền vào, lên tận bao lơn cung thánh. Quỳ ở đó, Martinô đã cất lời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu yêu dấu, xin ban của ăn cho chúng con. Con mới cho người hành khất số tiền duy nhất của mẹ con rồi. Chúng con không còn gì cho bữa tối nay. Xin Chúa đừng để mẹ con buồn giận chúng con. Cám ơn Chúa!” Em Gioanna thưa: “Amen”.
Martinô và Gioanna đứng dậy, bái Chúa rồi ra về, lòng đầy tin cậy Chúa biết rõ những gì gia đình các em cần. Vừa thấy hai con, bà không thấy chúng cầm gì thì biết ngay chúng đã gặp ai và hành động thế nào rồi. Bà cũng suy nghĩ có đánh, có la mắng chúng lúc này cũng chẳng ích gì. Vả lại, bà cũng từng bảo các con phải thương giúp người nghèo. Bà quay vào và liên tưởng đến người chồng, với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho ba tụi nhỏ sớm nghĩ lại, để chúng con có của nuôi thân, và có thể làm phúc cho cả những người nghèo nữa!”
Khi Martinô được 8 tuổi, tức năm 1587, ông Gioan Porres, một sĩ quan Tây Ban Nha, đã hồi tâm và trở về chăm sóc mẹ con bà Anna Velasquez. Ông đã đem hai con gửi trọ học ở nhà ông chú tên là Giacôbê tại Equador. Ở đây các em được chú thương yêu và thuê người giám hộ tốt để dạy về chữ nghĩa và đức tính. Martinô là cậu học sinh ngoan và thông minh. Sau hai năm, cha cậu để Gioanna ở lại tiếp tục học, còn Martinô, ông bắt về ở bên mẹ tại Lima. Ông căn dặn Martinô: “Con phải học nghề hớt tóc. Cha hy vọng con sẽ cố gắng học, và cố gắng trở nên người Công giáo tốt”. Martinô đã vâng lời cha và cố gắng học cũng như sống đạo tốt.
Thời đó và trong hoàn cảnh sống tại Lima, thợ hớt tóc đồng thời cũng là “thầy lang”. Họ phải học biết các kiến thức y học phổ thông, như biết bắt mạch chẩn bệnh, biết băng bó vết thương, biết chữa các bệnh cảm cúm, sốt rét, biết nắn khớp xương và pha thuốc. Martinô rất thích nghề này. Cậu thưa với mẹ: “Mẹ ơi, tập nghề hớt tóc là một nghề cao cả, mẹ ạ. Học nghề này con có thể giúp đỡ những người nghèo khó được nhiều, mẹ nhỉ!” Mẹ cậu khích lệ con: “Martinô, con là một đứa trẻ tốt. Xin Chúa chúc lành và luôn gìn giữ con tốt mãi như vậy!” Martinô thưa lại: “Thưa me, đó là điều con hằng cầu nguyện mỗi sáng trong thánh lễ, và Chúa đã giúp con. Ngài biến đổi con, giúp con học nghề này cho đạt kết quả tốt”.
Sau hai năm học nghề, lúc 12 tuổi, Martinô vui vẻ và hăng say hành nghề. Mỗi sáng, cậu tham dự Thánh lễ, có khi giúp lễ nhiều bao nhiêu có thể, tại nhà thờ Thánh Ladarô. Sau đó, mang đồ nghề đi rảo quanh khắp xóm dân nghèo, tới đến với những người già yếu, tàn tật để săn sóc bệnh tật cho họ mà không lấy công. Nhiều đêm cậu cũng phải thức để chăm sóc các con bệnh đang cần đến cậu. Nhất là những người hấp hối cần cậu ở bên khích lệ họ tin tưởng vào Chúa, và giúp họ dâng lên Ngài những bệnh tật đau khổ.
Năm lên 15, Martinô xin mẹ dẫn đến tu viện Mân Côi của các cha Dòng Ðaminh tại Lima để xin đi tu. Tuy mẹ mong muốn con làm linh mục hay ít là làm thầy Dòng nhưng Martinô xin mẹ ưng thuận để cậu chỉ xin làm người giúp việc trong Dòng mà thôi. Bà hỏi con: “Tại sao con không muốn làm linh mục hoặc thầy Dòng, mà lại chỉ muốn làm người giúp việc thôi?” Cậu thưa: “Vì con không muốn trở nên người quan trọng. Con chỉ muốn chu toàn những việc tầm thường vì yêu mến Chúa. Xin mẹ vui lòng chấp nhận ước nguyện của con!” Bà quyết định: “Ðược rồi, xin Chúa chúc lành cho con; còn trong tu viện, con muốn ở bậc nào tùy ý con chọn, mẹ chỉ xin con nhớ cầu nguyện cho mẹ”. Trước đây cha Tu viện trưởng cũng đã nhiều lấn nghe biết về cậu Martinô, nên người đã ưng thuận. Thế là Martinô được gia nhập tu viện, mang y phục người giúp việc trong Dòng Ðaminh. Cậu cảm thấy mình đã được thuộc trọn về Chúa và Ðức Mẹ.
Trong bậc giúp việc, Martinô dảm nhận nhiều công tác, như hớt tóc, coi nhà giặt, phụ trách phòng y tế, Martinô rất vui trong việc phụng vụ tha nhân. Bệnh nhân đầu tiên trong Dòng mà Martinô săn sóc, đó là Cha Phêrô. Một chân cha bị thương và lại bị nhiễm trùng, cần phải giải phẫu và cưa chân để cứu sinh mạng. Vì quá đau nên Cha Phêrô có phần bất nhẫn. Tới bữa, Martinô dọn một đĩa rau tươi với những trái ôliu thật ngon mang tới Cha. Ðến phòng, Maritnô gõ cửa. Có tiếng từ trong đáp ra: “Ði chỗ khác, để cho tôi yên”. Bất kể tiếng la quát cứng cỏi của Cha, cậu cứ điềm tĩnnh đẩy cửa bước vào. Với giọng săn sóc cậu hỏi: “Cha Phêrô ơi, Cha có thích dùng chút rau tươi tuyệt ngon này không?” Cha Phêrô mở to đôi mắt ngạc nhiên: “Sao lại không? Tôi đang thèm rau tươi đây. Sao cậu đoán được ý tôi?” Cha Phêrô ngồi dậy và dùng một cách ngon lành, “Cảm ơn Martinô nhé!” Cậu mỉm cười thưa: “Bây giờ để con thay băng cho Cha nhé?” Cha cũng mỉm cười đồng ý.
Thế là vừa thay băng Martinô vừa nói với Cha, “Thưa Cha, chắc Cha tin rằng Chúa sẽ chữa lành vết thương của Cha chứ?” “Martinô, con hãy cầu nguyện, để Chúa chữa lành vết thương của Cha! Còn Cha, dù có chết Cha cũng không muốn giải phẫu!”
Vừa ra khhi phòng Cha Phêrô, Martinô lên ngay nhà nguyện, quỳ cầu nguyện trước Nhà Tạm: “Lạy Chúa chí ái, xin chữa lành chân Cha Phêrô. Chúa đã từng chữa nhiều người khác, chẳng có gi mà Chúa không làm được. Con tin Chúa”. Tối hôm đó, khi Martinô trở lại thăm Cha Phêrô, cậu đã thấy Cha đang đi đi lại lại trong phòng! Vừa thấy cậu, Cha kêu lên: “Martinô, Martinô! con đã chữa lành vết thương của Cha rồi! Cha không biết phải cám ơn con thế nào. Con rời khỏi đâu chừng nửa giờ, thì chỗ bị sưng xẹp xuống và cơn đau cũng biến mất. Con vừa làm một phép lạ đó!” Martinô thưa lại, “Xin Cha đừng nói như vậy, con chỉ thay băng cho Cha thôi, chính Chúa mới làm cho vết thương Cha lành”. “Ðúng rồi, nhưng nếu con không cầu nguyện, chắc chắn Cha cũng chưa khỏi!”
Không những Martinô hết lòng thương yêu giúp đỡ mọi người, cậu còn săn sóc và bảo vệ sự sống của các con vật nữa. Các chú chim đến với cậu để kiếm ăn, các con mèo hoang cũng vậy. Cậu luôn dự trữ sẵn đồ ăn cho chúng. Một hôm, đàn chuột cắn đồ lễ tại Cung thánh, thầy phụ trách đã trình Cha Bề trên và xin để cậu Martinô diệt chúng, cậu bèn cầu nguyện, rồi đi lên phòng thánh. Vừa bắt gặp một chú chuột, Martinô gọi nó, nó đã ngoan ngoãn chạy lại bên cậu, Martinô nói: “Bây giờ chú hãy nghe cho kỹ... chú và các chuột khác phải rời khỏi phòng thánh này ngay, vì các chú đã cắn áo lễ. Chúa không hài lòng với các chú về việc này. Vậy các chú bảo nhau thu dọn ra ở chuồng bò. Tôi sẽ đem đồ ăn đến cho các chú. Hiểu chưa?”
Con chuột gật đầu rồi chạy mất. Một lát sau, nó dẫn một đàn chuột theo, nhắm thẳng hướng tay Martinô chỉ ra chuồng bò. Thầy phụ trách Cung thánh cũng hết sức ngạc nhiên khi chứng kiến đàn chuột đang đi theo hướng tay Martinô chỉ. Thầy đã lên trình Cha Bề trên về hiện tượng lạ lùng ấy. Và từ đó, không còn thấy lũ chuột cắn đồ lễ nữa.
Chín năm Martinô ở bậc giúp việc; đến năm 1603, khi anh đã 24 tuổi, các Bề trên nhận thấy ơn Chúa thương Martinô nhiều. Anh đã khiêm nhượng xin ở bậc giúp việc chứ không dám xin ở bậc các thầy. Các Bề trên và tất cả nhà Dòng đều nhận thấy anh sống đời cầu nguyện, khiêm nhượng thống hối và bác ái gương mẫu nên đã quyết định cho anh lên bậc tu sĩ thực thụ. Bề trên gọi Martinô và bảo: “Martinô, từ nay con không còn là người giúp việc nữa. Con sẽ là một Thầy Dòng”. Martinô thưa lại, “Thưa Cha, con bất xứng!” “Việc đó Cha chịu trách nhiệm. Con hãy mời mẹ con llên đây dự lễ Mặc áo Dòng!”
Khi được tin, mẹ cậu đã hết sức vui mừng.
Sau ngày Mặc áo Dòng, Martinô đã nhận thêm những trách vụ mới, như việc săn sóc những người nghèo khó bằng những lời: “Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành, gia tăng lương thực này, và xin Người thánh hóa tất cả những ai dùng của ăn này”. Lời nguyện này luôn luôn thấy hiệu lực. Bất kể người được ít kẻ được nhiều, không một ai đến xin ăn mà phải về tay không. Ai nấy đều được no đủ và hài lòng với thầy Martinô.
Một hôm, lúc thầy Martinô đem những ổ bánh cuối cùng trong kho nhà Dòng phát cho người nghèo, làm ông giúp việc nấu bếp lo lắng. Ông chạy đến thưa Cha Bề trên, nhưng ngài điềm tĩnh đáp: “Ông đừng lo, thầy Martinô không phát hết đâu, bánh sẽ còn đủ cho cả chúng ta nữa”.
Quả đúng như lời Cha Bề trên, vì hằng ngày, không rõ số bánh thầy Martinô đã cho đi bao nhiêu, nhưng các thầy vẫn luôn luôn có đủ bánh dùng.
Thầy Martinô luôn làm các việc bình thường trở nên những việc khác thường bằng tình yêu mến Chúa “hết lòng, hết sức, hết linh hồn” và phục vụ “yêu thương” anh em đồng bào theo giới răn bác ái của Chúa. Thầy thể hiện hai giới răn này suốt từ khi có trí khôn. Suốt hơn 45 năm sống đời khiêm hạ và bác ái trong Dòng Thánh Ðaminh tại Lima, Martinô tận tâm phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân, những người nghèo khó và các trẻ em mồ côi. Thầy sống rất đẹp lòng Chúa nên Ngài đã làm bao nhiêu điều lạ lùng qua lời cầu nguyện của Thầy: như các lần thị kiến, xuất thần, đánh tội nhiệm nhặt, ở hai nơi một trật, thông hiểu thần học, làm phép lạ chữa lành bệnh nhân, cảm thông hiểu biết cũng như sai khiến được các con vật vô tri.
Thầy sống thật xứng đáng là một tu sĩ gương mẫu trong đức vâng lời trọn hảo, đức khiêm nhượng thẳm sâu, và lòng thương yêu đối với các thụ tạo của Thiên Chúa. Vị Thánh hai dòng máu Tây Ban Nha và Pêru da mầu này đã thể hiện tình yêu thương với mọi người không phân biệt chủng tộc, màu da hay quốc tịch. Thầy phục vụ Chúa Kitô trong mọi người, vô điều kiện và vô giới hạn. Trong những đêm dài cầu nguyện và thông hối, Martinô được đói khát tình yêu Thiên Chúa, và trong những ngày dài Thầy dành để săn sóc các bệnh nhân, nuôi dưỡng người nghèo, thi hành các công việc lao tác của nhà Dòng với một lòng khao khát cứu rỗi các linh hồn. Ðời sống thánh thiện của Thầy khiến cho các Bề trên và cả tu viện coi Thầy như một vị linh hướng gương mẫu của họ. Chính Thầy đã khiêm nhượng tự xưng mình là “người nô lệ hèn mọn” hoặc là “con chó lai = Mulatto dog”. Nhưng người dương thời gọi Martinô là “Cha bác ái” và “Cha của người nghèo”.
Ðầu tháng 11 năm 1639, gần ngày sinh nhật thứ 60, Thầy ngã lâm trọng bệnh, suốt ba ngày chịu đau khổ cách can đảm. Trong khi đó, những người từng được Thầy săn sóc giúp đỡ, đã cầu nguyện và khóc thương Thầy bên ngoài tu viện. Ðến ngày thứ tư, bệnh tình của Thầy có phần thuyên giảm. Ðức Mẹ và Thánh Ðaminh đã hiện ra để yên ủi Thầy. Martinô đã mời Bề trên và mọi anh em trong tu viện tới. Họ đến để cầu nguyện cho Thầy trong cơn hấp hối. Cha Bề trên hỏi: “Thầy Martinô, Thầy muốn chúng tôi hát bài ca nào để tiễn đưa Thầy?” Thầy đáp lại, “Xin hát kinh Tin kính”.
Thế là toàn thể anh em cao giọng cất lên bài ca tuyên xin Ðức Tin. Tới câu “Thiên Chúa là Cha toàn năng, Ðấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình” thì Thầy nhắm mắt lìa trần, linh hồn bay về với Ðấng mà các tu sĩ đang tung hô ca ngợi. Hôm đó là ngày 4 tháng 11 năm 1639.
Ðức Thánh Cha Gioan XXIII đã phong thánh cho Thầy Martinô đe Porres ngày 6 tháng 5 năm 1962, và gọi người là “Martinô Bác Ái”. Lễ kính Thánh nhân trong toàn thể Giáo Hội được ấn định vào ngày 3 tháng 11 hằng năm.

Không có nhận xét nào