Truyen Thong Van Hoa
Truyền thống và văn hóa
Trong
một lần về thăm xứ truyền giáo thuộc huyện miền núi, giáp
ranh với Cambuchia, theo lời mời một vị linh mục dòng, tôi thấy
giáo xứ, nhà thờ được tổ chức chỉnh chu. Mừng. Giáo dân ngoài
người gốc Trung thuộc các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Quảng
Ngãi, còn lại là người dân tộc thiểu số.
Câu
chuyện chẳng có gì bận tâm cho đến khi tham dự thánh lễ. Xuyên
suốt phần thánh lễ, từ kinh sách, cho đến phần thưa đáp trong
thánh lễ đều tăm tấp giọng miền Trung đặc trưng. Tuy nhiên, sau
phần hiệp lễ, một anh trong ca đoàn bắt kinh của giáo phận, tôi
mới giật mình. Thay vì, cung giọng miền Trung, anh và cả cộng
đoàn đọc đều một giọng Bắc.
Đây
là kinh mới từ giáo phận đưa xuống. Tôi thắc mắc tại sao không
đọc bằng cung giọng của người miền Trung mà lại bằng cung
giọng người miền Bắc? Tham dự một thánh lễ khác tại giáo xứ
cách đó chừng 30 cây số, cũng gặp tình trạng như thế. Tôi chợt
hiểu vì toàn huyện đều do các linh mục thuộc một hội dòng
quản lý và các cha đều là gốc Bắc 54.
Trao
đổi với một linh mục tại đây, cho biết vì giọng miền Trung có
cung thấp, chậm nên nghe buồn buồn, nên linh mục cố sửa cho
giáo dân tại đây.
Câu
chuyện này làm tôi chợt nhớ một linh mục gốc Bắc khác khi
‘tình nguyện’ truyền giáo tại xứ người Nam, gần nơi tôi ở.
Trong nghi thức Tuần Thánh, cho rằng nghi thức và kinh của người
miền Nam (ví dụ như 14 đàng Thánh giá, đóng đinh và táng xác)
không hay như người Bắc, vị linh mục này đã phát biểu, năm sau
sẽ làm theo nghi thức của người miền Bắc cho long trọng.
Chưa
hết, vì thích ca hát và múa may, vị linh mục thẳng tay gạt ca
đoàn xứ sang một bên vì hát dở, để mời ca đoàn nơi cha phục
vụ trước đây, để hát hay hơn trong đúng ngày lễ vị thánh tử
đạo của giáo xứ. Vị linh mục gốc Bắc cho rằng, ca đoàn hát
hay thì thánh lễ mới long trọng.
Truyền
giáo bao giờ cũng đi kèm yếu tố văn hóa. Điều nay không ai có
thể chối cãi. Ngay từ thời các Thánh Tông đồ, cuộc tranh cãi
giữa các Tông đồ về văn hóa cũng đã xảy ra. Cuối cùng, yếu
tố coi trọng đa văn hóa đã thắng và người dân ngoại không phải
chịu phép cắt bì như người Kitô hữu gốc Do thái (Tđcv 15,1-35).
Gần
chúng ta hơn, đó là câu chuyện các cố Tây truyền đạo sang Việt
Nam. Các ngài không thể bắt tổ tiên chúng ta học tiếng Bồ Đào
Nha, tiếng Pháp, hay tiếng Latinh. Thay vào đó, các ngài cố
gắng học tiếng An nam, Latinh hóa chữ viết An nam để phục vụ
cho công cuộc truyền giáo.
Ở
thời mà tiếng Latinh còn là ngôn ngữ chính được dùng trong
phụng vụ, các ngài và tổ tiên chúng ta đã cố gắng bằng mọi
cách giúp người Kitô giáo Việt hiểu thánh lễ, Kinh Thánh, kinh
sách bằng nhiều sáng kiến khác nhau như vè, ca, vãn…
Tuy
nhiên, các ngài cũng xem trọng yếu tố văn hóa vùng miền, nên
đâu bắt gọi ông trùm, ông chánh miền Bắc tại các xứ Trung, vốn
gọi là ông câu, ông biện. Ngoài một số kinh quen thuộc thống
nhất ba vùng, thì các hình thức ca vãn mỗi vùng miền đều
khác biệt. Sự đa dạng về văn hóa ngoài việc giúp cho giáo dân
tại mỗi vùng miền hiểu rõ hơn đạo Kitô giáo, còn giúp cho
giáo dân tại mỗi vùng cảm thấy sự gần gũi trong sinh hoạt Kitô
giáo, làm nên nền tảng Kitô giáo bén rễ sâu trong tâm thức
giáo dân.
Đáng
tiếc trong câu chuyện truyền giáo hôm nay, yếu tố văn hóa hoặc
bị xem thường hoặc khoác chiếc áo văn hóa cao cấp theo kiểu
khai sáng cho dân man di ngày xưa. Lịch sử giáo hội còn đó để
kể cho chúng ta những vết thương sâu về cách truyền giáo ‘khai
sáng’ như thế.
Viết
đến đây, tôi lại nhớ câu chuyện tại một huyện vùng núi thuộc
tỉnh Lâm Đồng. Hai phần ba giáo dân là người dân tộc thiểu số
nhưng lại không có nổi một thánh lễ bằng tiếng dân tộc, ngoài
trừ kinh Lạy Cha đọc rệu rã bằng tiếng dân tộc. Vị linh mục
quản xứ miệt mài lo xây sửa và làm kinh tế. Ban mục vụ giáo
xứ đều nằm trong tay người Kinh, vốn sống co cụm ở những vị
trí đẹp nhất tại giáo xứ. Nên khi linh mục lên tiếng chỉ trích
tục nối dây của người dân tộc, thì họ làm ngơ. Nối dây cứ
nối.
Trong
tất cả linh mục, nữ tu tại các xứ có người dân tộc thiểu số
mà tôi có dịp quen biết, đều có chung tâm trạng: người dân tộc
thiểu số còn chậm phát triển theo kiểu dân man di. Đa phần các
vị lo phần bề ngoài: xây và sửa, sửa và xây từ cơ sở cộng
đoàn, nhà nguyện, nhà thờ, các chương trình y tế, nhân đạo
cũng chỉ là kiểu ‘vá áo’. Cái yếu tố cốt lõi khiến Kitô
giáo thấm sâu hơn là văn hóa thì bị bỏ qua hoặc không xem
trọng.
Bao
giờ các vị truyền giáo còn chưa xem trọng việc ‘rửa tội’ cho
các nghi thức của người dân tộc thiểu số, thì khi đó Kitô giáo
vẫn chỉ là chiếc áo khoác hờ khi lạnh mà thôi.
Nguyễn Huy Hoàng
* Bài viết phản ánh quan điểm và văn
phong riêng của tác giả. Bài viết do tác giả gửi trực tiếp cho truyền
thông Dòng Tên Việt Nam.
Post a Comment