THANH LE HY TE TUYET VOI CHUONG 31
CHƯƠNG 31: CÁC NGHI THỨC THÁNH
LỄ VÀ
Ý NGHĨA CỦA
CHÚNG
Trước khi bắt đầu cắt nghĩa về các nghi thức Thánh Lễ, xin nhắc độc giả lưu ý rằng Thánh Lễ gồm ba phần chính: DÂNG LỄ, TRUYỀN PHÉP VÀ
RƯỚC LỄ. Ba phần chính này do chính Đức Kitô thiết lập. Dâng lễ là nghi
thức
tiếp nhận bánh và rượu do giáo dân cung cấp, và dâng lên Thiên Chúa với lời ngợi khen chúc tụng. Hành vi này đã được làm trong
Bữa Tiệc Ly, khi Đức Giêsu cầm lấy
bánh, dâng lời chúc tụng và
tạ ơn Cha của Người trên trời. Rồi Người truyền phép bánh với những lời này; ĐÂY LÀ MÌNH THẦY. Cuối bữa ăn, Người cầm lấy Chén rượu, chúc tụng và tạ ơn Cha của Người
trên trời. Rồi Người truyền phép rượu với những lời này: ĐÂY LÀ CHÉN MÁU THẦY. Vì vậy Truyền Phép hệ tại việc chủ tế lập lại lời của Chúa
Giêsu khi Người nói: Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
Truyền
Phép là phần quan trọng nhất của Thánh Lễ, vì qua đó Đức Kitô
hiện diện trên bàn thờ
và đó
cũng là cốt tủy của
Hy Tế, như độc giả đã thấy trong chưong đầu cuốn sách này. Rước Lễ là ăn Thịt và uống Máu Thánh. Hành
vi này cũng được làm trong Bữa Tiệc Ly, khi Chúa Giêsu ban Thịt và Máu Người cho các Tông Đồ ăn và uống dưới hình Bánh và Rượu.
Tất cả những nghi thức đi trước
phần Dâng Lễ, gồm các Thánh vịnh, Lời
Nguyện, Bài Đọc Sách Thánh và bài giảng, trước kia gọi là Thánh Lễ của Dự Tòng, nnghĩa là những người đang học giáo lý nhưng chưa rửa tội, những
người này đến dự Thánh Lễ tới hết phần này thì phải rút lui trước khi Thánh
Lễ chính thức bắt đầu với phần Dâng Lễ. Thánh Lễ Dự Tòng cũng có thể gọi là phần khai mào hay Nhập Lễ.
PHẦN NHẬP LỄ hay THÁNH LỄ DỰ TÕNG
(Với Luật Chữ Đỏ của Sách Lễ theo Công Đồng Trentô)
Trước Thánh Lễ linh mục vừa rửa tay vừa cầu nguyện xin Chúa ban ân sủng để dâng Hy Tế Thánh với đôi bàn tay sạch và tâm hồn trong trắng. Sau đó ngài mặc lễ phục trong khi đọc những
kinh
qui định, cầm lấy Chén Thánh
và tất cả các đồ lễ đi kèm, rồi đi đến bàn thờ, có các người giúp lễ đi trước.
Khi
đến bậc thấp nhất
ở chân
bàn thờ, ngài
bái gối nếu có Mình Thánh
trong Nhà Tạm; nếu không, ngài cúi mình trước tượng Chịu
Nạn rồi bước lên bàn thờ. Sau khi đặt Chén Thánh
lên trên Khăn Thánh được trải ra trên bàn
thờ, ngài mở Sách Lễ ra, đánh
dấu chỗ đọc rồi trở về giữa
bàn
thờ. Rồi từ đó
ngài
đi xuống chân bàn thờ, cúi mình sâu, làm Dấu Thánh Giá và đọc Thánh Vịnh
Judica me (“Lạy Chúa, xin xử cho con”). Thánh
Vịnh này diễn tả tâm tình mà linh mục và giáo dân phải có trước khi bắt đầu hành vi thờ phượng
cao
cả nhất này.
Kế
đến, linh mục cúi mình sâu và đọc kinh Cáo Mình hay xưng tội chung
và người giúp lễ đọc theo nhân danh cộng đoàn. Cả hai đấm ngực giống như
người thu thuế ăn năn, để tỏ lòng thống hối các tội. Rồi linh mục đứng thẳng lên ban phép xá
giải và cầu xin Chúa ban
ơn tha tội cho dân bằng
kinh Misereatur (“Xin thưong”) và Indulgentiam (“Xin ân xá”). Sau khi cúi mình,
ngài
đứng thẳng lên để tỏ ý rằng cả linh mục và giáo dân được nâng lên và an ủi vì biết mình đã nhận được ơn tha tội.
Sau
kinh Cáo Mình và các đáp ca, linh mục lên bàn thờ, hôn bàn thờ để tỏ dấu tôn kính Đức Kitô Đấng sẽ ngự xuống
làm Tế Vật, và cũng để tỏ dấu liên
kết của Đức Ái nối kết chúng ta với các Thánh có thánh tích đặt dưới Đá
Bàn Thờ (của bàn thờ được thánh hiến). [Bàn Thờ biểu trưng cho Thiên Chúa là Đấng chúng ta không thể thấy; vì thế Bàn Thờ là một vật Thánh. Khó có thể tiếp xúc với một người mà chúng ta không nhìn thấy, vì thế cả những người ngoại giáo cũng xử dụng các bàn thờ.] Nếu là Đại lễ, linh mục xông hương
bàn thờ để tỏ lòng tôn kính sâu thẳm
đối
với Thiên Chúa. Việc xông hương
nhắc
chúng ta nhớ rằng các lời nguyện của chúng ta phải bay lên trời như những làn
hương bay
lên trên không. Người giúp lễ cũng xông hương cho
chủ tế để tỏ lòng kính trọng chức thánh và cũng để biểu thị rằng các nhân đức của
ngài
giống như hương trầm phải góp phần xây dựng và khích lệ toàn thể cộng
đoàn.
Rồi
chủ tế đến trước Sách Lễ, làm dấu Thánh Giá, đọc Ca Nhập Lễ, bắt đầu
Thánh Lễ. Ca Nhập Lễ thường là một câu lấy trong Kinh Thánh
hay
câu đầu tiên của một Thánh Vịnh
có ý nghĩa liên quan đến Mùa Phụng Vụ hay lễ
ngày hôm đó. Kết thúc Ca Nhập Lễ bằng kinh ca ngợi Thiên
Chúa Ba Ngôi Cực Thánh: “Sáng danh Đức Chúa Cha,v.v…”
Với
tinh thần hoàn toàn lệ thuộc
Thiên Chúa và cần được ơn trợ giúp của Thiên
Chúa cả cho chủ tế và
toàn thể giáo dân, linh mục và
người giúp lễ luân phiên đọc Kirie eleison, Christs eleison, Kyrie eleison, mỗi câu đọc ba lần dâng lên Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là các câu bằng tiếng Hy Lạp có nghĩa
là “Xin Chúa thương xót chúng con, Xin Chúa Kitô thương xót chúng con, xin Chúa
thương xót chúng con”.
Tiếp theo lời cầu xin thương xót và ân sủng này là kinh Gloria in
excelsis Deo (“Vinh
danh Thiên Chúa trên các tầng trời”). diễn tả lòng tạ ơn và niềm
vui
vì ơn cứu chuộc
chúng ta được tái hiện trong mỗi Thánh Lễ. Câu đầu câu của Kinh Vinh Danh này là bài ca ngợi khen được các Thiên Thần hát
lên lúc Chúa Kitô giáng sinh; phần còn lại là những lời ngợi khen và tạ ơn Thiên chúa. Kinh Vinh Danh là một bài ca của niềm
vui,
không đọc trong các lễ cầu
cho người chết và các Chúa Nhật Mùa Vọng và Mùa Chay, cũng như các ngày có ý nghĩa không vui.
Sau
kinh Vinh Danh (hay khi không đọc kinh Vinh Danh, thi ngay sau
kinh
Xin Chúa thương xót), linh mục hôn bàn thờ rồi quay ra giáo dân và
chào: “Chúa
ở cùng anh chị em”, người giúp lễ đáp “và ở cùng cha”. Những
lời chào muốn nói lên ước nguyện
của linh mục đối với cộng đoàn đang hiện diện rằng Chúa sẽ giúp mọi người cầu nguyện trong thần khí và sự thật; vì chúng ta cần Chúa ban ơn đặc biệt để có thể cầu nguyện
đúng đắn. Giáo dân đáp lại ước nguyện
của linh mục: Xin Chúa phù giúp Cha khi cầu nguyện và dâng Hy Tế Thánh
này. Lời chào và câu đáp trả này của linh mục và giáo dân
được lặp lại nhiều lần trong Thánh Lễ, để diễn tả mối liên hệ mật thiết giữa linh mục và giáo dân, cũng như sự
nâng đỡ và khích lệ lẫn nhau kiên trì và
sốt sắng trong việc cầu nguyện.
Rồi
linh mục quay lại chỗ Sách Lễ, cúi đầu về phía tượng Chịu Nạn và mời gọi cộng đoàn hợp ý cần cầu nguyện với mình: Chúng ta hãy cầu nguyện. Kinh
nguyện tiếp theo gọi là Lời Tổng Nguyện (hay Lời Nguyện Nhập Lễ) vì
kinh
nguyện này là tóm tắt tất cả các ý nguyện và nhu cầu của Hội Thánh và
tín hữu đang hiện diện và được linh mục dâng lên trước nhan Chúa.
Kết thúc lời nguyện này bằng câu “Nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con…”, dựa vào lời Chúa Giêsu đã hứa rằng Chúa Cha sẽ mọi ơn chúng ta
cầu
xin nhân danh Con của Người. Cuối cùng giáo dân thưa: Amen (Ước gì được như vậy)
Lúc
đọc câu: “Chúa ở cùng anh chị em và Chúng ta hãy cầu nguyện, linh mục giang hai tay ra, giơ cao lên rồi chấp lại, để tỏ
ý rằng mình hướng lên trời để
những lời cầu xin của chúng ta được thực hiện. Chấp tay là dấu tỏ lòng
khiêm nhường, nhìn nhận chúng ta tự sức mình làm
chẳng được gì, nên chúng
ta hoàn toàn trông cậy vào Chúa. Trong khi
đọc lời Tổng Nguyện,
linh mục giang
rộng hai tay để nhớ đến Chúa
Cứu Thế khi giang tay trên Thánh Giá
đã cầu xin cho toàn thể nhân loại.
ĐỌC THÁNH THƯ
Đọc
xong Lời Tổng Nguyện,
linh
mục đọc bài Sách Thánh trích từ Cựu
Ước hay Tân Ước. Nếu trích từ Cựu Ước, thì không bao giờ nằm trong phần Tin
Mừng, nhưng trong sách Công Vụ Tông Đồ, các Thư hay Sách Khải
Huyền.Vì phần đa các bài đọc này lấy từ thư của các Thánh Tông Đồ, nên phần này thường được gọi chung là phần “Thánh Thư” (Epistola).
Bài
Thánh Thư đọc trong ngày lễ luôn luôn có liên quan đến Mùa Phụng Vụ hay lễ kính hôm ấy, có
mục đích đánh thức nơi chúng ta những tâm tình
phù hợp với Mùa hay vị Thánh được kính hôm ấy. Sau bài đọc, người giúp lễ thay mặt cộng đoàn thưa: “Tạ ơn Chúa”, để diễn tả lòng biết ơn Thiên Chúa vì lời giáo huấn của Người.
Tiếp đến là các câu xướng
đáp lấy từ Kinh Thánh.
Rồi hát câu Allêluia (“Ngợi khen Chúa”), Mùa Chay không hát Alleluia.
Trong các lễ Phục Sinh,
HIện Xuống, và trong suốt tuần bát nhật của hai lễ này, và trong Lễ Mình Máu
Thánh Chúa, hát thêm bài ca tiếp liên, một bài Thánh thi dài để diễn tả thêm ý nghĩa ngày lễ. Trong lễ Bảy Sự Thương
Khó Đức Mẹ, Ca Tiếp Liên
được thay bằng bài Stabat Mater (“Mẹ đứng dưới chân Thập Giá”), và trong
lễ Cầu hồn thì hát bài Dies Irae (“Ngày thịnh nộ”)
ĐỌC TIN MỪNG, KINH TIN KÍNH
Tin
Mừng có địa vị quan trọng
và cao hơn hẳn so với Thánh Thư, vì
chứa đựng Lời Thiên
Chúa nói với chúng ta không phải bằng miệng lưỡi loài
người, nhưng nhờ chính Con Một Thiên Chúa. Vì thế, ngay từ thời kỳ đầu,
việc
đọc Tin Mừng luôn
luôn kèm theo nghi lễ long trọng. Trước khi đọc, chủ tế
đứng cúi mình một lúc trước Bàn Thờ, đọc câu Munda cor meum (“Xin tẩy rửa lòng trí và môi miệng con”), để xin Thiên Chúa thanh tẩy lòng trí và môi
miệng hầu xứng đáng công bố Lời Thiên Chúa. Trong các lễ trọng, Phó tế quì đọc câu này trước Bàn Thờ; đọc xong, thầy cầm sách đến quì trước chủ tế để
nhận
phép lành. Để đọc bài Tin Mừng,
linh
mục đi sang bên phài bàn thờ để
biểu
trưng việc chuyển giao từ Luật Cũ sang giáo huấn của Đức Kitô. Trong lễ trọng, Phó Tế có nhiệm vụ đọc bài Tin Mừng, thầy hướng về phía bắc. Theo
thánh Grêgoriô Cả, phía bắc tượng trưng cho thế giới dân ngoại đắm chìm trong bóng tối; ánh sáng của giáo lý Kitô Giáo cùng với gương sáng của Đức Giêsu Kitô phải xua tan bóng
tối, vì thế Phó Tế quay sang
phía bắc đọc
Tin Mừng. Các cây nến cháy sáng hai bên Sách Lễ trong khi đọc bài Tin
Mừng cũng có ý nghĩa như thế, đồng thời việc xông hương Sách diễn tả lòng tôn kính đối với Lời Chúa. Bài đọc Tin Mừng bắt đầu với lời chào: Chúa ở
cùng anh chị em v.v… và Bài trích Tin Mừng theo Thánh Mátthêu
(hay
một tác giả Tin Mừng khác). Người giúp
lễ đáp: Lạy Chúa, vinh danh
Chúa, rồi cả linh mục giáo dân làm dấu trên trán, miệng và ngực để chỉ rằng họ đang cầu
xin
Thiên Chúa soi sáng trí hiểu, và mở lòng đón nhận
lời dạy thánh của Người
và làm cho họ luôn luôn sẵn sàng tuyên xưng lời dạy ấy với đôi môi của họ.
Trước đó linh mục (hay phó tế) ghi dấu Thánh Giá trên chỗ Tin Mừng
sắp đọc, để chỉ rằng đó là lời của Chúa Giêsu
chịu đóng đinh nhờ đó chúng
ta được ơn
cứu độ và phép lành. Giáo dân đứng khi nghe đọc bài Tin Mừng,
để nói lên lòng tôn kính đối với Lời Chúa, và lòng sẵn sàng làm bất cứ điều gì mà Lời Chúa truyền làm.
Kết
thúc bài Tin Mừng, người giúp lễ thay mặt giáo dân thưa: Lạy Chúa
Kitô, ngợi khen Chúa,
để tạ ơn Chúa vì
giáo lý thánh của Người. Rồi linh mục hôn Sách Thánh để tỏ lòng tôn kính những
lời thánh vừa đọc,
và chỉ ra rằng đó là một thông điệp về ân sủng và lòng thương xót của Chúa. Ý nghĩa này cũng
được diễn tả bằng những lời linh mục đọc tiếp theo: “Nhờ
những lời Tin Mừng, xin Chúa xóa sạch tội lỗi chúng
con.” Ngay từ thời kỳ đầu, vào các ngày Chúa Nhật
và lễ kính, ở chỗ này Hội Thánh
đã có thói quen đọc bài Tin
Mừng bằng tiếng địa phương tại Bàn Thờ hay
giảng một bài giáo huấn tại bục giảng,
nay là bài giảng về Lời Chúa. Kết thúc bài giáo huấn, các dự tòng vào
các thế kỷ đầu thường ra về, Phần Nhập Lễ kết thúc bằng một bài Tin Mừng.
Thánh Lễ chính thức
được bắt đầu bằng kinh Tin Kính, cũng gọi là Tuyên
tín (của Công Đồng) Nicêa.
Lời tuyên xưng đức tin này là kết quả của lời Tin
Mừng vừa được công bố. Câu nòng cốt của Kinh Tin Kình là câu diễn tả sự
kiện
Nhập Thể của Con Thiên Chúa,
và Ngôi Lời đã làm người; linh mục và
toàn
thể cộng đoàn cũng quì gối khi đọc câu này. Kinh Tin Kính được đọc vào
các lễ Chúa Nhật, các lễ kính Chúa và Đức Mẹ, lễ kính các Thánh Tông Đồ và
Tiến Sĩ Hội Thánh, và
nhiều lễ kính khác, cũng như các
lễ trong các tuần bát
nhật
của các Đại Lễ. Vì việc tuyên xưng đức tin này theo sau lời giáo huấn
chúng ta đã nhận được, nên nó dọn lòng chúng ta để cử hành các mầu nhiệm thánh, vì nếu không
có một đức tin sâu xa sống động, chúng ta không thể biết
qúi
chuộng hay đón nhận được những lợi ích của mầu nhiệm này.
PHẦN NHẤT CỦA THÁNH
LỄ: DÂNG LỄ VẬT
Sau
Kinh Tin Kính, linh mục quay ra giáo dân và nói: “Chúa ở cùng anh
chị em,” rồi nói: “Chúng
ta hãy cầu nguyện”
để mời gọi cộng đoàn chăm chú
theo
dõi những lời nguyện và kết hợp với hành vi hiến tế sắp bắt đầu. Câu ngài đọc, gọi là “Lời nguyện dâng lễ”, được lấy từ Kinh Thánh và thích hợp
với
ngày hay mùa ấy. Sau đó linh mục mở khăn che Chén, đặt Bánh Thánh lên
Đĩa, dâng lên cầu xin Thiên Chúa thương chấp nhận tế vật tinh tuyền này và ban những ơn cần thiết cho đời sống hiện tại và ơn cứu độ muôn đời cho tất cả giáo dân. Hành vi dâng bánh biểu thị việc chúng ta suy phục và đặt
mình hoàn toàn trong bàn tay Thiên
Chúa. Linh mục ngước mắt lên trời để chỉ rằng
những lễ vật được hiến dâng lên Thiên Chúa; rồi lại đưa mắt xuống để chỉ thân phận bất xứng của chúng
ta. Sau đó ngài làm dấu thánh giá trên đĩa thánh, đặt bánh thánh lên khăn thánh và đi sang bên thánh thư của bàn thờ, ngài đổ rượu và một giọt nước vào chén thánh. Ngài ban phép lành cho nước trước khi hòa với rượu, đồng thời
cầu xin Chúa
nhờ mầu nhiệm nước và
rượu này, chúng ta được thông phần vào thiên tính của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã
thông phần vào nhân tính của chúng ta. Ngài không ban phép lành cho rượu, vì
rượu sẽ biểu trưng cho Đức Kitô, Con Chúa Cha Hằng Hữu, nguồn mạch mọi phép lành. Nước biểu trưng cho bản tính nhân loại của chúng ta, rất cần
được chúc lành. Việc nước hòa tan trong rượu được
các nhà thần học cắt
nghĩa là biểu trưng cho sự kết hợp thiên tính và nhân tính nơi Đức Kitô. Trở về giữa bàn thờ, linh mục nâng Chén Thánh lên, ngước mắt lên cầu khẩn Cha khoan
nhân trên trời thương nhận chén cứu độ để ban ơn cứu độ cho toàn thế
giới, rồi ngài lấy chén thánh làm dấu Thánh Giá lên khăn thánh,
đặt chén lên khăn thánh rồi lấy tấm đậy đặt lên chén. Lý
do linh mục gọi hiến tế là “bánh tinh tuyền” và “chén cứu độ” này. Đó là
vì những lễ vật này sẽ trở thành Mình và
Máu Chúa Kitô. Phải phân biệt phần
DÂNG LỄ VẬT với việc dâng chính
Hy Tế Thánh, vì rõ ràng việc dâng Hy Tế Thánh này không phải là việc dâng bánh
và rượu, mà là Mình và Máu Chúa Kitô, vì thế không thể xảy ra trước lúc Truyền Phép
Cúi
mình xuống bàn thờ, linh mục khiêm nhường cầu xin Chúa nhận lễ vật;
rồi ngài làm phép bánh và rượu đồng thời cầu khẩn Chúa Thánh
Thần ngự xuống thánh hóa lễ vật.
Trong các Lễ trọng, có xông hương bánh rượu,
bàn thờ và chủ tế. Màn hương trầm phủ trên bàn thờ là biểu trưng cho Thiên Chúa Uy Linh Đền Thờ Giêrusalem, làm cho Đền Thờ phủ ngập màn màn mây có thể thấy được. Qua
biểu
tượng này, Người tỏ lộ sự yêu thích nơi được chọn để dâng các lời cầu nguyện và các lễ vật toàn thiêu.
Dâng lễ vật xong, chủ tế đi sang bên Thánh Thư của bàn thờ, rửa các ngón
tay trong khi đọc Thánh Vịnh 25, để nhắc nhở cho chính mình và giáo dân
rầng cần phải có sự thanh sạch nơi hồn và xác để có thể ra trước mặt Chúa.
Trở
về giữa bàn thờ, ngài chấp tay, khiêm nhường cúi mình cầu khẩn Thiên
Chúa Ba Ngôi thương nhận lễ vật. Rồi ngài hôn bàn thờ, quay ra giáo dân và
nói:
Anh em hãy cầu nguyện…
để mời gọi mọi người hợp ý với ngài cầu xin ân sủng
Quay lên phía bàn thờ, ngài bắt đầu đọc Lời Nguyện Thầm,
gọi như thế vì linh mục đọc thầm Lời Nguyện. Các
lời nguyện thầm này thay đổi mỗi ngày, và tương ứng với số lượng và bố cục của các Lời Tổng Nguyện. Câu kết:
„Đến muôn thuở muôn đời‟ được đọc to và để dẫn vào phần đầu Kinh Tiền
Tụng.
Kinh Tiền Tụng là đoạn mở đầu cho phần hai của Thánh
Lễ,
phần Truyền Phép. Sau câu: „Chúa ở cùng anh chị em‟ và giáo dân thưa: „Và ở cùng Cha‟,
linh
mục trang trọng giang hai tay lên để chỉ việc nâng lòng trí lên và nói: Hãy
nâng tâm hồn lên, giáo dân thưa: Chúng tôi đang hướng về Chúa. Với những
lời này, ngài mời gọi mọi người có mặt hãy hợp ý với ngài dâng lời tạ ơn
Thiên Chúa Toàn Năng Hằng Hữu, vì vinh danh chúa Kitô Chúa chúng ta. Và vì lời ngợi khen
bằng môi miệng của chúng
ta quá yếu hèn và bất toàn, nên
ngài
tỏ ước nguyện được kết hợp với tiếng hát khải hoàn cả ca đoàn Thiên
Chúa để cùng tung hô: „Thánh, Thánh, Thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy vinh quang Chúa.
Hoan hô Chúa trên các tầng trời, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Hoan hô Chúa trên các tầng trời‟.
PHẦN HAI CỦA THÁNH THỂ TRUYỀN PHÉP
Các
kinh đọc từ Thánh, Thánh,
Thánh đến Kinh Lạy Cha được gọi là phần
Lễ Qui. Lễ qui có nghĩa là một qui luật cố định,
các kinh mọi ngày trong năm
đều giống nhau, trong
khi phần lớn các kinh nguyện
và lễ
nghi của các phần khác, của Thánh Lễ
thay đổi tùy theo các mùa phụng vụ, lễ của ngày hôm ấy
hay các dịp đặc biệt khác. Các kinh của phần
Lễ Qui [theo phụng vụ cũ] được đọc thầm, để chỉ cho cộng đoàn thấy tính chất vô cùng trọng thể của Mầu Nhiệm vĩ đại này. Các lời Truyền Phép là tâm điểm của phần Lễ Qui.
Bắt đầu phần Lễ Qui, chủ tế ngước mắt và giang hai tay lên trời. Hành vi này là bắt chước Chúa Giêsu,
mỗi khi làm phép lạ. Người thường nhìn lên trời.
Rồi chủ tế đưa mắt và hai tay xuống, hôn bàn thờ rồi giang tay đọc các
lời nguyện, giống như ông Môsê xưa khi cầu bầu cho dân chúng.
Giống như ở phần dâng lễ vật, ở đây trong các kinh đọc trước Truyền
Phép, chúng tôi nêu lên hai mục đich của lời cầu xin: xin Thiên Chúa thương
nhận
lễ vật, và ban cho chúng ta sự bằng an và ơn cứu độ. Theo sau lời kinh
chung này là những
lời xin đặc biệt hơn, đó là xin Thiên Chúa,
nhờ
Hiến Tế tinh tuyền thánh thiện này, bảo vệ và ban phúc cho Hội Thánh Công Giáo,
Đức Thánh Cha, các Đức Giám Mục và mọi người tín hữu đang giữ đức tin chính truyền. Ngoài ra cũng nhắc đến đích danh một số người để nài xin
Thiên Chúa thương xót họ: những
người xin lễ, cùng với gia đình và họ hàng thân thuộc của họ, và những người được cầu
nguyện cho trong Thánh Lễ này.
Sau khi cầu nguyện như trên cho mọi thành viên của Hội Thánh Chiến Đấu ở trần
gian
này, chủ tế tưởng nhớ đến Hội Thánh Khải Hoàn là các Thánh trên trời, cầu xin Thiên Chúa nhờ công nghiệp và lời chuyển cầu của các ngài, cho chúng ta được Người bảo
vệ và chở che. Đứng đầu danh
sách các Thánh được nhắc
đến luôn là Đức Trinh Nữ Maria,
Mẹ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng trong giây lát sẽ ngự xuống làm Tế Vật trên bàn thờ.
Trong Cựu Ước, trước khi giết con vật hiến tế, vị Thượng
Tế thường đặt tay trên đầu từng con,
cầu xin Đấng Tối Cao tha tội và ban những ơn cần thiết
cho hồn và xác của mình và toàn dân. Noi theo nghi lễ xưa này, linh mục trong Tân Ước cũng giang tay trên lễ vật, trước khi sát tế một cách mầu nhiệm
lễ vật đền tội là Con Chiên Thiên Chúa,
ngài
nài xin Thiên Chúa cho mình và
cộng đoàn, sau khi đuợc hòa giải với Người, thì được
ơn bình an ở đời này, được
giải thoát khỏi án phạt đời đời, và được liệt kê vào hàng ngũ những người Chúa chọn.
Khung cảnh bây giờ chuyển sang Nhà Tiệc Ly ở Giêrusalem, là nơi mà vào tối trước khi chịu nạn, Chúa Giêsu đã thiết lập và cử hành Thánh
Lễ,
và linh mục đại
diện cho Người, tái hiện
lại điều Người đã làm
và
đã nói khi ấy.
Sau khi bánh đã hóa thành Mình Thánh,
và rượu hóa thành Máu Châu Báu Chúa
Kitô, linh mục bái gối và thờ lạy Mình Máu Thánh Chúa, rồi cầm Mình
và Máu Thánh giơ lên cao cho giáo dân thờ lạy. Chuông run làm dấu hiệu cho
thấy
giây phút long trọng đã đến, lúc mà Chúa Kitô,
là Thiên
Chúa và là Người, Đấng phải được tôn vinh và phụng thờ muôn đời, bây
giờ
thực sự hiện diện trên bàn thờ. Tất cả mọi người hiện diện đều quì gối, cúi mình thờ lạy, đấm ngực và nói trong lòng: Giêsu trong Người con
sống, trong
Người
con hy vọng sẽ chết, dù sống dù chết con thuộc về Người.”
Bị
giết mà không
đổ máu, Đức Kitô bây giờ nằm
trên
Bàn Thờ trong trạng
thái
một cái chết mầu nhiệm. Với lòng khiêm nhường sâu thẳm và lòng sốt
mến
hăng nồng, linh mục
nài xin Thiên Chúa Toàn Năng vui lòng nhìn
xuống và chấp nhận lễ vật này, xin Người ban phúc lành và ân sủng bởi trời cho những người đang sống, và
ban cho những người đã
an nghỉ được một nơi vui
vẻ,
sáng láng và bình an. Ở chỗ này, linh mục đấm ngực và phá vỡ sự thinh
lặng trang trọng bằng câu “Và
cho
chúng con là những kẻ
tội lỗi”, rồi tiếp tục
đọc
thầm: „trông cậy vào lượng từ bi hải hà của Chúa, xin cho chúng con được dự phần vào hàng ngũ các Thánh Tông Đồ và Tử Đạo‟.
Lời Nguyện kết thúc bằng câu „Nhờ Đức Kitô Chúa chúng con‟, được nối
liền với lời nguyện tiếp theo nói lên lời chúc tụng, danh dự và vinh quang:
„Nhờ Người, lạy Chúa, Chúa hằng sáng tạo, thánh hóa, chúc
phúc và ban phát
cho chúng con những lễ vật này. Chính nhờ Người, với Người và trong Người, mọi danh dự và vinh quang đều qui về Chúa là Cha Toàn Năng,
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời.‟ Trong khi đọc câu này, linh mục cầm Mình Thánh trên Chén Thánh và giơ cả hai lên cao để tỏ lòng cung kính
đi kèm theo những lời chúc tụng ngợi khen. Lễ Qui kết thúc ở đây, và Phần
Ba của Thánh Lễ bắt đầu.
PHẦN BA CỦA THÁNH LỄ: RƯỚC LỄ
Cũng như Kinh Tiền Tụng mở đầu cho phần Lễ Qui, thì với Kinh Lạy Cha, chúng
ta bắt đầu Phần Ba của Thánh
Lễ.
Chúa Giêsu đã thực hiện hành vi tự hiến tế vì chúng ta bằng lời Truyền Phép, bây giờ chúng ta có thể gọi Thiên
Chúa là Cha của chúng ta, có thể dâng lên Người những lời cầu xin với lòng
tin tưởng con thảo, và được hưởng quyền dự phần vào lương thực thần linh khi rước lễ.
Giang cao hai tay, linh mục cất cao giọng đọc „Kinh Lạy Cha‟ và mời gọi mọi người cùng tham gia vào những lời cầu xin này. Sau khi đọc câu Amen
để kết thúc kinh, linh mục hạ thấp giọng
đọc
kinh xin Chúa Cha giải thoát mình và mọi người đang cầu nguyện khỏi mọi sự dữ đã qua, hiện
tại và tương lai, nhờ lời chuyển cầu của các Thánh, và xin Người ban bình an cho những ngày
chúng ta đang sống. Ngài làm
dấu Thánh Giá trên đĩa thánh
và đặt Mình Thánh trên đĩa rồi bái quì, ngài thờ lạy
Mình Thánh và để tưởng nhớ việc Đức Kitô
bẻ bánh trong Bữa Tiệc Ly, ngài bẻ Bánh Thánh rồi bỏ một miếng nhỏ
vào Chén Thánh. Cũng như việc tách rời Bánh và Rượu biểu thị sự chết của
Đức Kitô, thì việc kết hợp Mình và Máu Người có ý nhắc chúng ta nhớ tới
việc
Người sống lại trong ngày Phục Sinh.
Cho
đến chỗ này, các kinh linh mục
đọc
đều được dâng lên Chúa Cha,
bây giờ linh mục dâng lời nguyện
lên
Chúa Kitô Cứu Thế, ngài đọc ba lần: „Lạy
Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con‟. Ở lần đọc thứ ba, câu xin thương xót chúng con được thay bằng câu kết thúc: „xin ban bình an cho chúng con‟. Tiếp theo là lời nguyện xin bình
an. Trong các lễ
trọng, chủ tế và những
người phụ lễ trao đổi cho nhau cái hôn bình an. Thời xưa, khi nam
giới
và nữ giới ở hai bên riêng biệt nhau
trong nhà thờ và tất cả những người dự lễ đều rước lễ, tất cả cộng đoàn thường có thói quen chúc
bình
an cho nhau theo kiểu này. Chỉ những
ai tuân giữ bác ái với nhau mới xứng đáng đón nhận Thiên Chúa bình an. Sau đó linh mục cúi mình mắt cung kính nhìn vào Mình Thánh, và đọc kinh chuẩn bị rước lễ. Tay cầm Mình
Thánh, ngài đọc ba lần: „Lạy
Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con,
nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành sạch.‟
Rồi ngài cung kính chịu Mình Thánh và Máu Thánh Chúa,
nhờ đó kết hiệp mật thiết với Người trong mối quan
hệ chặt chẽ, vì thế hành vi này được gọi là “Hiệp Lễ” hay “Rước Lễ”. Bất cứ ai trong cộng đoàn muốn hiệp lễ thì lên rước Mình Thánh Chúa và nhờ đó tham dự mật thiết vào Hi Tế Thánh.
Sau
rước lễ, linh mục rửa tay trong Chén
Lễ,
một ít rượu và nước được đổ
lên các ngón tay linh mục đã cầm Mình Thánh,
trong khi rửa tay, linh mục đọc những lời nguyện về việc tiếp nhận Bí Tích Thánh này. Rồi ngài đến
trước sách lễ đã
được dời
về phía trái bàn thờ, và đọc một
câu Kinh Thánh gọi
là “Ca Hiệp Lễ”; xưa kia ca hiệp lễ này được hát trong khi giáo dân rước lễ. Sau
đó, linh mục quay về phía giáo dân và lập lại lời chào:
„Chúa ở cùng anh
chị em,‟ rồi đọc các lời nguyện kết lễ.
Các
lời nguyện kết lễ này [trước Vaticanô II] đươc gọi là các lời nguyện
sau rước lễ. Trong các lời nguyện này, linh mục và giáo dân tạ ơn Thiên
Chúa vì cho chúng ta tham dự vào các Mầu Nhiệm
Thánh, và cầu xin Thiên Chúa giữ gìn nơi mình những
hoa
quả của lễ tế siêu vời này, lương thực thần linh. Chung chung các lời nguyện Sau Rước Lễ nhắc lại ý tưởng chủ đạo của
ngày
lễ hay mùa đang cử hành hôm ấy, chúng
tương ứng về số lượng với các Lời
Tống Nguyện và Lời Nguyện Thầm (Lời Nguyện Dâng Lễ). Trước khi
đọc
lời nguyện kết lễ này, chủ tế nói: „Chúng ta hãy cầu nguyện‟, rồi giang
tay đọc lời nguyện kết lễ.
Đọc
xong lời nguyện này, linh mục quay ra chào giáo dân: „Chúa ở cùng
anh chị em,‟ rồi đứng giữa bàn thờ, ngài tuyên bố kết thúc Thánh Lễ và chào
từ biệt họ với câu: „Lễ
đã xong, chúc anh chị em về bằng an.‟ Trong Mùa Vọng và Mùa Chay là những mùa không đọc kinh Vinh Danh, thì câu: „Lễ đã xong…‟ được thay bằng „Chúng ta hãy chúc tụng Chúa‟, Giáo dân thưa: „Tạ ơn Chúa‟.
Kế
đến, chủ tế ban phép lành cho cộng đoàn
và để kết thúc toàn bộ nghi
lễ, ngài sang „phía Phúc Âm‟ của bàn thờ và đọc đoạn Khởi đầu Tin Mừng
theo Thánh Gioan. Giống như lúc đọc kinh Tin Kính, khi đến câu „Và Ngôi
Lời đã làm Người‟, cả
chủ tế và giáo dân cùng quì gối. Cuối
cùng, cộng đoàn đáp: „Tạ ơn Chúa‟ để bày tỏ lòng cảm tạ Thiên Chúa vì ơn Mặc Khải và mầu nhiệm cứu độ được trình bày trong Tin Mừng Thánh Gioan.
NGHI THỨC THÁNH LỄ CẦU CHO NGƯỜI CHẾT
Vì
các nghi thức Thánh Lễ có phần nào khác
với nghi thức
Thánh Lễ cầu cho Người Chết,
nên cũng cần nhắc
qua
về nghi thức này. Khi đến dưới chân
bàn thờ, linh mục bỏ không đọc Thánh Vình 25: „Lạy Chúa xin xử cho con,‟ vì Thánh Vịnh này diễn tả niềm vui
của những người đi
lên Nhà Chúa, và Hội
Thánh đang khóc thương và cầu nguyện cho các linh hồn những người đã chết
mà còn đang bị giam giữ trong lửa thanh tẩy, chưa được đi lên nhà tạm của
Thiên Chúa.
Ở
Ca Nhập Lễ, chủ tế không làm dấu Thánh Giá trên mình, nhưng làm trên Sách Lễ, như thể các linh hồn qua đời đang ở trước mặt ngài và ngay từ đầu ngài sẽ ban phép lành và xin ơn yên nghỉ và ánh sáng ngàn thu cho linh hồn
ấy. Kinh Sáng Danh cũng được bỏ ở đây và sau này lúc rửa tay, vì kinh này
diễn
tả niềm vui.
Cũng thế, không đọc hay hát kinh „Vinh danh Chúa trên các
tầng trời‟, để chỉ rằng chúng
ta đau buồn vì các linh hồn thánh thiện chưa được phép đứng trước
ngai Chiên Thiên Chúa và hòa tiếng của mình vào với tiếng các Thiên Thần
ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa. Thay vì các đáp ca và Allêluia vui mừng sau
bài đọc Thánh Thư, linh mục đọc kinh xin cho các linh hồn quá cố đuợc
giải
thoát khỏi xiềng xích tội lỗi và hưởng hạnh phúc ánh sáng muôn đời. Bài
„Ngày Thịnh Nộ‟ (Dies Irae) là bài ca tiếp liền long trọng và buồn, nài xin
Đấng Thẩm Phán Chí Công tha thứ và thương xót linh hồn người quá cố.
Trước bài Phúc Âm, linh mục không đọc: „Xin Chúa ngự trị nơi lòng và miệng lưỡi con‟ v.v…; không hôn Sách
Lễ sau khi
đọc
Phúc Âm, cũng không
có những câu „Nhờ những lời Phúc Âm…‟ Không đọc kinh Tin Kính, cũng
như tất cả những gì diễn tả bầu khí lễ lạc hân hoan. Hội Thánh thương khóc những con cái mình đã qua đời, và cử hành Thánh Lễ cho họ, là những
người chưa được hưởng đầy đủ Phúc Lành của Thiên Chúa, hay nhận được cái hôn hòa giải để họ được làm hòa với Thiên Chúa muôn đời.
Linh mục không
làm phép trước khi hòa nước và
rượu,
vì nước biểu trưng
cho người tín hữu,
còn người chết đang
được dâng lễ này thì không còn thuộc
thẩm quyền pháp lý của Hội Thánh nữa, nhưng phải trả lời trước
một mình
Thiên Chúa mà thôi.
Đoạn cuối của kinh „Đây Chiên Thiên Chúa có thay đổi: hai lần „Xin cho họ được nghỉ yên muôn đời‟. Ước nguyện được diễn tả trong lời kinh cầu cho các
linh hồn này có ba ý nghĩa: được tha hình phạt, linh hồn được vào nơi vinh
quang, và sau cùng cả thân
xác cũng được vinh quang, vì như thế mới có hạnh phúc viên mãn.
Không đọc lời chúa và hôn bình
an, vì chỉ có Hội Thánh Chiến
Đấu mới cần điều này.
Kết lễ, thay vì câu „Lễ xong, chúc anh chị em về bình an‟, linh mục đọc
„Xin cho các linh hồn được nghỉ yên‟, và giáo dân đáp „Amen‟. Không ban phép lành cho cộng đoàn, vì
mọi ơn ích và phép lành của Thánh Lễ được dành cho
người đã qua đời.
Đoạn tóm tắt các nghi thức Thánh Lễ trên đây đã kết thúc toàn bộ khảo
luận
này.
*
* *
Post a Comment